Siêu âm tim thai trong chẩn đoán bệnh tim bẩm sinh trước sinh
Th.S.
BS Lê Kim Tuyến
PGS.
TS. Phạm Nguyễn Vinh
TÓM TẮT
Với sự
tiến bộ của siêu âm doppler, việc chẩn đóan bệnh tim bẩm sinh trước sinh ngày
càng phát triển. Chẩn đoán trước sinh giúp chúng ta không “bất ngờ” khi chăm
sóc trẻ sau sanh, giúp điều trị trong bào thai hoặc đình chỉ thai sản. Các chỉ
định chính của siêu âm tim thai bao gồm: tiền căn gia đình mắc bệnh tim bẩm
sinh, bản thân người mẹ có nguy cơ cao mang thai mắc bệnh tim bẩm sinh và những
dấu hiệu thai nhi mắc bệnh tim cao. BS sản khoa đóng vai trò quan trọng như
tuyến đầu sàng lọc, phát hiện những dấu hiệu “nghi ngờ”, để gửi đến BS tim
mạch.
Với sự
tiến bộ của siêu âm doppler, siêu âm tim đã là 1 phương tiện chẩn đóan không
xâm nhập và đáng tin cậy trong bệnh tim bẩm sinh (BTBS) và rối lọan chức năng
tim mạch. Ngày nay siêu âm doppler mở rộng sang lĩnh vực thai nhi. Tỷ lệ BTBS
là 8/1000 trẻ sinh-sống[1-3] , như vậy ở VN mỗi năm trung bình có khỏang 8000
trẻ mắc bệnh tim được sinh ra, trong đó ¼ bệnh tim (2000 trường hợp) là phức
tạp do cấu trúc giải phẫu hoặc phối hợp với những dị tật khác (các cơ quan nội
tạng hoặc NST).
1. VAI
TRÒ CHẨN ĐOÁN TRƯỚC SANH BTBS
Siêu âm
tim thai vào khoảng tháng 4,5 của thai kỳ giúp chúng ta tránh bất ngờ, chuẩn bị
cho sản phụ được sanh ở tuyến trên (có đủ phương tiện như prostaglandines
E1,máy thở, Rashkind, thông tim can thiệp), có sự phối hợp của nhiều chuyên
khoa.
Ngoài
ra, chẩn đoán sớm như vậy có thể giúp điều trị bệnh tim ở giai đoạn bào thai
hoặc đình chỉ thai sản nếu tổn thương tim quá phức tạp và nặng.
2. CẤP
ĐỘ CHẨN ĐOÁN:
Có hai
cấp độ chẩn đoán bệnh lý tim thai
- Cấp
độ một: siêu âm tim thai (SATT) được tiến hành ở tháng thứ 4 hoặc 5 của
thai kỳ, xem 4 buồng tim, sự xuất phát của đại động mạch, nếu có bất
thường hoặc nghi ngờ thì chuyển lên tuyến trên
- Cấp độ hai: thường do BS tim mạch nhi đã được đào tạo về SATT tiến hành, có nhiệm vụ chẩn đóan, tiên lựơng và lập kế họach trước sanh 1 cách cụ thể.
3. CHỈ
ĐỊNH SIÊU ÂM TIM THAI:
a. Có
tiền căn gia đình mà làm tăng nguy cơ bệnh tim thai:
- Có con hoặc lần mang thai trước bị bệnh tim
- Trong
bệnh “tắc nghẽn của tim trái” như hẹp eo động mạch chủ (ĐMC), bất thường
van ĐMC..., sự tái diễn và mức độ nặng đa dạng trong 1 gia đình. Ví dụ
gia đình có tiền căn lọan sản van ĐMC đơn giản có thể dẫn đến 1 sự tái
diễn của thiểu sản thất trái nặng.
- Trong bệnh tim vùng nón-thân động mạch (conotroncale), nhóm này cũng rất đa dạng: tứ chứng Fallot, thiểu sản van động mạch phổi (ĐMP), thông liên thất (TLT), thân chung động mạch, đứt đọan ĐMC. Trong nhóm bệnh này cần tiến hành lập bản đồ gene, tìm bất thường ở NST 22q11.
- Bệnh cơ tim và những bệnh tim khác: khiếm khuyết “vách”, hồi lưu tĩnh mạch phổi bất thường (RVPA), đồng dạng nhĩ (isomerisme). Ngày nay với sự tiến bộ của ngành sinh học phân tử và nhờ vào nghiên cứu có hệ thống của những gia đình tự nguyện, 1 vài gene đã được phát hiện và công bố (carnitine-OCTN2 đối với bệnh cơ tim dãn nở, NDUFV1 đối với bệnh cơ tim phì đại, NDUFS4...)
- Bố bị BTBS: con có khả năng bị BTBS là 3%
- Tiền căn bất thường gene: Các hội chứng Noonan, Marfan, Holt-Oram, Di-George, William.
b.
Người mẹ có nguy cơ cao mang thai mắc BTBS:
- Rối loạn chuyển hóa ở người mẹ: tiểu đường phụ thuộc insuline, đặc biệt là những người mẹ có đường huyết chưa được kiểm sóat tốt; tiểu phenyl-ceton (phenylketonuria)[4-6].
- Người mẹ tiếp xúc với chất gây dị dạng hệ tim mạch: rượu, thuốc chống động kinh, lithium (Ebstein), bị nhiễm Rubella trước 12 tuần[7-8].
- Người mẹ có tự kháng thể ( bệnh tự miễn ): anti-SSA, anti-SSB (bệnh cơ tim dãn nở, blốc nhĩ thất)[9].
- Người mẹ bị bệnh tim: tăng tử vong do tăng áp ĐMP, hẹp ĐMC nặng.
c.
Những dấu hiệu thai nhi có bệnh tim mạch cao:
- Tiến triển của phù thai nhi: 25% có bệnh tim[12]
- Phát hiện những dị tật ngòai tim, bao gồm bất thường NST[10-11] : thóat vị rốn (30%), thoát vị hoành (10%), teo hành tá tràng, phù gáy, ĐM rốn đơn độc, dò thực quản-khí quản, nang dịch...
- Phát hiện rối lọan nhịp: nhịp nhanh (không lỗ van 3 lá, bệnh cơ tim, bất tương hợp 2 lần), bloc nhĩ thất (bất tương hợp 2 lần, kênh nhĩ thất, tự miễn)
- Nghi ngờ BTBS do BS sản khoa phát hiện khi siêu âm “thường qui”
- Điều cần lưu ý ở nhóm “nguy cơ cao” chỉ phát hiện được 25% BTBS, 1 số lớn còn lại là trong nhóm “không có nguy cơ” hoặc không có tiền sử trước đó. Vì vậy chỉ có khám 1 cách có hệ thống tim thai là cho độ nhạy chẩn đóan cao: 75%-90% của BTBS[18-21].
4. CÁC
DẤU HIỆU TRÊN SIÊU ÂM[13] :
Việc
xác định 4 buồng tim là bắt buộc trong SATT, xác định vòng van 2 lá, 3 lá,
khỏang cách giữa van 2 lá- 3 lá... . Điều quan trọng là kiểm tra sự “cân đối”
giữa các buồng tim ở tuần thứ 22 của thai kỳ, hơi mất cân đối ở tuần thứ 32
(tim phải lớn hơn tim trái về mặt sinh lý: TP/TT<1,4).
SATT
được khuyên nên tiến hành vào tuần lễ thứ 20-22 của thai kỳ. SATT cho thấy cấu
trúc tim thai bình thường không có nghĩa là trái tim sẽ bình thường ở 3 tháng
cuối thai kỳ hay sau sanh. Ví dụ như những trường hợp khiếm khuyết vách đơn
thuần, những bất thường có diễn tiến (hẹp eo ĐMC), những dị tật “nhỏ” hoặc do
tư thế thai nhi không thụân lợi cho việc chẩn đóan.
Sau đây
là những mô tả giải phẫu học trên siêu âm:
a.Bất
thường nhận ra ở mặt cắt 4 buồng:
- Vị trí tim thai bất thường: tim bên phải có thể là situs solitus, inversus, hoặc ambigus
- Van nhĩ thất không nhìn thấy và thất đi theo bị thiểu sản
- Không
thấy van 2 lá có thể chẩn đóan thiểu sản thất trái hoặc không lỗ van 2 lá
(hình 1).
- Không thấy van 3 lá có thể
chẩn đóan thiểu sản thất phải hoặc không lỗ van 3 lá (hình 2).
Hình 1: Thiểu sản thất trái
Hình 2: Không lỗ van 3 lá kèm TLT
- Nhìn
thấy van nhĩ –thất nhưng bất thường về chức năng, vị trí, cử động:
Ebstein, loạn sản van 3 lá, loạn sản van 2 lá. Tâm thất tương ứng có hình
dạng đa dạng. Dấu hiệu giãn nhĩ phải hoặc nhĩ trái, là dấu hiệu gợi ý của
mức độ hở van.
- Một van nhĩ thất chung: thì tâm trương mở ra
cả 2 thất (khiếm khuyết vách nhĩ thất) cho chẩn đóan kênh nhĩ thất (hình
3). (có thể có 1 thất lớn hơn, kích thước lỗ thông rất đa dạng).
Hình 3: Kênh nhĩ thất tòan phần, 4 buồng thì tâm trương
- Bất
thường “vách”
- Không thấy tòan bộ vách
liên thất: đồng nghĩa “tâm thất độc nhất”. Sự kết nối nhĩ thất cũng rất
đa dạng, có thể có 2 van nhĩ -thất hiện diện hoặc chỉ có 1 van nhĩ thất.
Khi lỗ thông lớn (>2/3 chiều dài vách) xem như tâm thất độc nhất, mặc
dù các dị tật này không cùng 1 nhóm “phôi thai học”. (hình 4)
Hình 4: Tâm thất độc nhất với 2 bộ máy van nhĩ-thất (dạng TLT
lớn).
- Khiếm
khuyết vách liên thất (VLT): kích thước rất đa dạng, nhưng <2/3 chiều
dài của VLT gọi là thông liên thất. Cần phân tích van nhĩ-thất để xem TLT
này là bất thường đơn độc hay phối hợp trong bệnh tim phức tạp (không lỗ
hay bất thường van 2 lá, không lỗ hay bất thường van 3 lá)
- Không
thấy “tòan bộ vách liên nhĩ”: tâm nhĩ độc nhất, thường gặp trong nhóm bệnh
gọi là “đồng dạng” (isomerisme): thường là đồng dạng trái trong tâm nhĩ
độc nhất đơn thuần; thường là đồng dạng phải nếu là kênh nhĩ thất “phức
tạp”.
- Khiếm
khuyết vách nhĩ-thất: kích thước rất đa dạng, thường ở phấn thấp của vách
liên nhĩ ngay chỗ kết nối của van nhĩ-thất, và VLT phía sau (phần nhận),
cho chẩn đóan kênh nhĩ-thất.
- Khiếm
khuyết vách liên nhĩ: rất khó chẩn đóan ở những trường hợp TLN lỗ thứ phát
- Ở
phần thấp: thông liên nhĩ lỗ tiên phát, dạng kênh nhĩ thất bán phần.
- Bất
thường về chức năng:
- Mất
cân đối giữa 2 thất hoặc 2 nhĩ: nó không phải là bệnh lý trong 3 tháng
cuối thai kỳ nếu chỉ là đơn độc trong ưu thế tim phải. Ngược lại, mất cân
đối 1 cách có ý nghĩa (>2/1) là một dấu hiệu gợi ý (hẹp eo ĐMC hoặc
bất thường nối liền tĩnh mạch) (hình 5)
- Phì
đại vách hoặc tòan bộ cơ tim: cho chẩn đóan bệnh cơ tim phì đại trong bối
cảnh 1 hội chứng do bất thường gene hay bệnh tim tắc nghẽn có tiền căn
gia đình.
- Giãn thất phải hoặc trái:
cho chẩn đóan bệnh cơ tim không tắc nghẽn hoặc hậu quả không đặc hiệu của
1 bệnh lý tắc nghẽn hoặc quá tải thể tích
Hình 5: hình ảnh mất cân đối thất trái/thất phải ở tuần 23 thai
kỳ, trẻ bị hẹp eo ĐMC sau sanh.
- Các
hình ảnh bất thường khác:
- Hình
ảnh khối u: thường gặp là Rhabdomyome, nếu là có nhiều, cần phải tìm
sclérose tubéreuse. 1 khối u duy nhất- fibrome. Teratome thừờng ở cuống
động mạch trong màng tim và kèm theo tràn dịch màng ngòai tim. (hình 6)
- Hình ảnh sáng ở trụ cơ: của
van 2 lá hoặc 3 lá, nó không đặc hiệu khi đơn độc.
Hình 6: Bướu tim trong thất trái, có chẩn đóan sau sinh là
Rhabdomyomes.
b.Hình
ảnh bất thường mạch máu ngoài tim:
- Mạch máu phía sau “thêm vào” (supplémentaire):
chen vào giữa ĐMC xuống và nhĩ, cho chẩn đóan “ống thu thập” (collecteur)
mạch máu sau tim, nhận 4 tĩnh mạch phổi mà không kết nối với nhĩ trái.
Hình ảnh này không phải lúc nào cũng thấy dễ dàng, nhưng nếu thấy gợi ý
chẩn đoán nối liền tĩnh mạch phổi bất thường tòan phần. (hình 7)
Hình 7: Nối liền tĩnh mạch phổi bất thường, hình ảnh ống thu
thập nằm giữa nhĩ trái và ĐMC.
- Giãn
tĩnh mạch chủ trên: thường gợi ý nối liền tĩnh mạch phổi bất thường thể
trên tim.
- Bất thường tĩnh mạch hệ thống: Tĩnh mạch chủ
trên trái đổ vào xoang vành, hồi lưu tĩnh mạch chủ dưới qua “azygos”, bất
thường ống tĩnh mạch (ductus venosus)...
c.Bất thường ở đại động mạch[14] :
- Khi siêu âm phải thấy rõ 2 đại động mạch, 2
vòng van tổ chim, sự phân nhánh của ĐMP và cung ĐMC để nhận ra 2 động mạch
này. Hướng của 2 động mạch này bắt chéo nhau, chứng tỏ có tương hợp
thất-đại động mạch.
Hình 8: Chuyển vị đại động mạch với hình ảnh 2 động mạch song
song
d.Bệnh lý tắc nghẽn với vách liên thất nguyên vẹn:
- Hẹp
van ĐMC hoặc ĐMP: chẩn đóan siêu âm là chắc chắn, có khi cũng nghi ngờ khi
quan sát cử động, “độ cứng” của van ĐMC va ĐMP. Chẩn đóan được gợi ý khí
có biến chứng trên thất tương ứng: phì đại với chức năng bảo tồn, giãn và
giảm co bóp thất hoặc giãn nhĩ.
- Hẹp
động mạch ở xa: phân biệt hẹp eo ĐMC hoặc hẹp ống động mạch.
- Hẹp
eo ĐMC: hình ảnh rõ ràng nhất là eo ĐMC có kích thước nhỏ hơn 2 độ lệch
chuẩn so với trị số trung bình của tuổi thai. Dấu hiệu gợi ý là mất cân
đối giữa tim phải va trái (>2/1), mặc dù là dấu hiệu này kém đặc hiệu
ở 3 tháng cuối.
- Hẹp
ống động mạch: đó là 1 bất thường về chức năng, gặp trong trường hợp
người mẹ dùng thuốc giảm đau-kháng viêm, đặc biệt là Indomethacine
- Những bất thường này phụ
thuộc vào điều kiện tuần hòan và nó diễn tiến theo thời gian, xảy ra
thường trễ trong quá trình mang thai, có khi tạo ra sau sanh.
e.Bệnh
nón-thân (conotroncale)[15] :
Bệnh này chiếm đa số trong bệnh lý tắc nghẽn kèm thông liên
thất. Nhóm bệnh này rất đa dạng: tứ chứng Fallot, không lỗ van ĐMP kèm TLT,
thiểu sản van ĐMP, thân chung động mạch, đứt đọan ĐMC, hội chứng hẹp eo ĐMC và
bất thường ở cung ĐMC.
Những bệnh tim này thường có sự tương hợp thất-đại động mạch, sự bất tương hợp thất-đại động mạch cho hình ảnh các đại động mạch song song trên siêu âm. Trong trường hợp không lỗ van ĐMP, sự bất tương hợp thất-đại động mạch được xác định bằng vị trí bất thường của ĐMC trên phần phễu tim phải:
Những bệnh tim này thường có sự tương hợp thất-đại động mạch, sự bất tương hợp thất-đại động mạch cho hình ảnh các đại động mạch song song trên siêu âm. Trong trường hợp không lỗ van ĐMP, sự bất tương hợp thất-đại động mạch được xác định bằng vị trí bất thường của ĐMC trên phần phễu tim phải:
- Chuyển
vị đại động mạch đơn thuần: khi chỉ thấy bất tương hợp thất-đại động mạch.
- Chuyển
vị đại động mạch kết hợp với bất thường giải phẫu khác: khiếm khuyết vách,
bất thường van nhĩ-thất hoặc van tổ chim, bất thường đại động mạch (hẹp
chủ, teo hoặc giảm sản ĐMP).
- Vị
trí đại động mạch bất thường kèm TLT, chúng khác với chẩn đóan trên là mất
sự liên tục thất-đại động mạch.
- Bất tương hợp 2 lần (chuyển vị đại động mạch
có sữa chữa): có thể kết hợp với tất cả các dạng của bệnh van tim, tâm
thất hay đại động mạch. (hình 9)
Hình 9 : bất tương hợp 2 lần kèm TLT
5.
NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CẤP CỨU NỘI VÀ NGOẠI KHOA CHU SINH[16,18,21,22] :
Gần 15
năm qua, trên thế giới việc chăm sóc cấp cứu tim mạch sơ sinh đã có những bước
tiến bộ tột bật: trước tiên là nhờ việc sử dụng Prostaglandine E1 trong những
bệnh tim sống phụ thuộc vào ống động mạch (ductodépendantes-ÔĐM); sự tiến bộ
của thông tim can thiệp và cuối cùng là việc chẩn đóan BTBS trước sinh, đã cho
phép chúng ta chăm sóc trẻ chu sinh 1 cách thích hợp.
- BTBS
tím sơ sinh nặng do giảm cung lượng phổi: không lỗ van ĐMP kèm TLT, 1 vài
thể của bệnh tứ chứng Fallot, hẹp van ĐMP “nguy kịch” (critique) và không
lỗ van ĐMP với VLT nguyên vẹn, BTBS phức tạp kèm không lỗ van ĐMP hoặc hẹp
van ĐMP rất nặng. Trong những tình huống này, tuần hòan phổi được cung cấp
bởi ÔĐM. Nếu ÔĐM đóng lại sau sanh, trẻ sẽ tím dữ dội, giảm oxygène trong
máu và nhiễm toan chuyển hóa, nhanh chóng dẫn tới tử vong khi trẻ
không được điều trị kịp thời.
- Tắc
nghẽn tim trái nặng: hẹp van ĐMC “nguy kịch”, hẹp eo ĐMC đơn thuần hoặc
kết hợp với những bất thường trong tim, đứt đọan ĐMC và các dạng khác nhau
của thiểu sản thất trái. Trong những tình huống này, sự thông thương của
ÔĐM là “bắt buộc” để bảo đảm cung lượng “hệ thống”.
- Chuyển
vị đại động mạch đơn thuần (không kèm TLT): sau sinh, khi không có luồng
thông ở tầng nhĩ hoặc ÔĐM, thất phải tống 1 lượng máu kém oxy về phía ĐMC
và thất trái tống máu chứa nhiều oxy về ĐMP. Tuần hòan này không thể đảm
bảo để duy trì sự sống, do đó bắt buộc phải đảm bảo sự thông thương ở tầng
nhĩ và tầng động mạch, có nghĩa chúng ta phải chăm sóc trẻ ở nơi có khoa
sơ sinh và khoa tim mạch nhi và nếu có thể là khoa phẫu thuật tim sơ sinh.
Gần đây bệnh viện Necker (Paris) đã chứng minh rằng chẩn đóan trứơc sinh
của chuyển vị đại động mạch đơn thuần có tiên lượng cải thiện rõ rệt[14].
- Nối liền tĩnh mạch phổi toàn phần cũng là 1
cấp cứu sơ sinh (khi có tắc nghẽn), nhưng chẩn đóan trước sinh rất khó vì
cấu trúc trong tim bình thường. Các dấu hiệu gợi ý: thấy được ống thu thập
tĩnh mạch ở sau tim, giãn tim phải. Khi thấy các dấu hiệu này, thai phụ
cần được gửi đến BS chuyên khoa tim mạch nhi để có chẩn đóan xác định
trứớc sinh bằng cách phân tích chính xác hồi lưu tĩnh mạch phổi bằng
doppler màu.
Việc
chẩn đóan trứơc sinh BTBS cho phép chúng ta lựa chọn nơi phù hợp để người mẹ
sanh con:
- Trẻ
bị chuyển vị đại động mạch đơn thuần bắt buộc sinh trong bệnh viện có khoa
sản, khoa sơ sinh và khoa can thiệp tim mạch nhi, ở nơi mà có thể làm thủ
thuật mở rộng VLN (Rashkind) trong khi chờ đợi phẫu thuật.
- Trẻ
có bệnh tim khác mà cần cấp cứu sau sanh phải được sanh ở nơi có khoa cấp
cứu sơ sinh và sự hiện diện của BS tim mạch nhi. Trong phòng sanh phải có
Prostaglandine E1 để giữ ÔĐM thông thương.
- Nếu
bệnh tim không cần cấp cứu, chúng ta cần khuyên cho trẻ khám chuyên khoa
tim mạch nhi sơ sinh để cho phép lọai trừ những trường hợp cấp cứu, giải
thích cho bố mẹ cách theo dõi và phương thức điều trị.
- Vấn đề lọan nhịp thai nhi sẽ được đề cập trong
1 bài khác. Phát hiện nhịp nhanh trên thất cần điều trị trong quá trình
mang thai thường là cho người mẹ uống thuốc. Tùy theo tình trạng lâm
sàng thai nhi dưới điều trị, chúng ta có thể khuyên bằng những phương thức
sanh cụ thể: trong 1 trung tâm “chuyên khoa” mà rối lọan nhịp nguy hiểm,
thường là sinh bằng đường dưới, mổ lấy thai khi Bloc nhĩ thất với nhịp
thất rất chậm (<45-50l/p).
6.
KẾT LUẬN:
Hiện
nay chúng ta có thể chẩn đóan những BTBS mà có làm thay đổi có ý nghĩa cấu trúc
của tim. Việc chẩn đóan bệnh tim trứớc sinh cần có vai trò hợp tác của các BS ở
nhiều chuyên khoa: BS sản khoa, BS nhi khoa và BS tim mạch nhi. Trong đó vai
trò BS sản khoa được nhấn mạnh như một tuyến đầu để sàng lọc, BS tim mạch thì
xác định nguy cơ cấp cứu sơ sinh, tổ chức lúc sinh và cùng với BS nhi khoa chăm
sóc trẻ sau sinh một cách tốt nhất.
Tài
liệu tham khảo
1.
Mitchelle SC, Korones SB, Berendes HW. Congenital heart disease in 56 109
births. Incidence and natural history. Circulation 1971; 43: 323-332
2.
Hoffman JL, Christianson R. Congenital heart disease in a cohort of 19 502
births with long-term follow-up. Am J Cardiol 1978; 42: 641-647
3.
Ferencz C, Rubin JD, McCarter RJ et al. Congenital heart disease: prevalence at
livebirth. The Baltimore-Washington Infant Study. Am J Epidemiol 1985; 121:
31-36
4.
Coumbs CA, Kitzmiller JL. Spontaneous abortion and congenital anomalies in
diabetes. Ballières Clin Obstet Gynaecol 1991; 5: 315-331
5.
Shields LE, Gan EA, Murphy HF, Sahn DJ, Moore TR. The prognostic values of
Hemoglobin A1c in predicting fetal heart disease in diabetic pregnancies.
Obstet Gynecol 1993; 81: 954-957
6.
Rouse B, Azen C, Koch R et al. Maternal Phenylketonuria Collaboration Study
(MPKUCS) offspring: facial anomalies, malformations, and early neurological
sequelae. Am J Med Genet 1997; 69: 89-95
7.
Cohen LS, Friedman JM, Jefferson JW, Johnson EM, Weiner ML. A re-evaluation of
risk of in utero exposure to lithium. JAMA 1994; 271: 146-156
8.
Gregg NM. Congenital cataract following german measles in mother. The Ophthamal
Soc Aust 1941; 3: 35-36
9.
Scott JS, Maddison PJ, Taylor PV, Esscher E, Scott O. Connective-tissue
disease, antibodies to ribonucleoprotein, and congenital heart block. N Engl J
Med 1983; 309: 209-212
10.
Nora JJ. Multifactorial inheritance hypothesis for the etiology of congenital
heart disease: the genetic environment interaction. Circulation 1968; 604-617
11.
Brenner JI, Berg KA, Schneider DS, Clark EB, Boughman JA. Cardiac malformation
in relatives of infants with hypoplastic left-heart syndrome. A J Dis Child
1989; 143: 1492-1494
12.
Skoll A, Sharland GK, Allan LD. Ultrasound findings in non-immun hydrops.
Ultrasound Obstet & Gynecol 1991; 1: 309-312
13.
Allan L. Antenatal diagnosis of heart disease. Heart 2000; 83: 367
14.
BonnetD,Coltri A, ButeraG,FermontL, Le Bidois J,KachanerJet al. Detection of
transposition of the great arteries in fetuses reduces neonatal morbidity and
mortality. Circulation1999;99: 916-918
15.
Boudjemline Y, Fermont L, Le Bidois J, Fraisse A, Kachaner J, Villain E et al.
Diagnostic prenatal des malformations cono-troncales : résultats dans 337 cas.
Arch Mal Coeur Vaiss 2000; 93:583-586
16.
Cruz A, Mirlesse V, Le Bidois J, Diallo P, Fermont L, Jaquemard F et al. Prise
en charge des cardiopathies congénitales foetales en centre obstétricopédiatrique.
Méd Foet Échogr Gynécol 1998; 34: 4-8
17.
Fermont L, Batisse A, Piéchaud JF. Échographie foetale. Le dépistage prénatal
des cardiopathies congénitales. Encycl Méd Chir Paris: Elsevier SAS, 1988;
Radiodiagnostic – Coeur-Poumon, 32-014-A-10, 11p
18.
Fermont L, De Geeter B, Aubry MC et al. A close collaboration between
obstetricians and cardiologists allows antenatal detection of severe cardiac
malformations by 2Decho. Second World Congress of Pediatric Cardiology, New
York 1985; [abstract]
19.
Fermont L, Kachaner J, Sidi D. Detection of congenital heart diseases: why and
how to screen a population. In: Chervenak FA, Isaacson GC, Campbell S, eds.
Ultrasound in obstetrics and gynecology. Boston: Little Brown and Co, 1993; 1115-1122
20.
Fermont L. Pathologies cardiaques. In: Papiernik E, Cabrol, Pons Ceds.
Obstétrique. Paris: Flammarion Médecine-Sciences, 1995; 317-348
21.
LeBidois J,FermontL, SidiD,KachanerJ. Diagnostic antenatal des malformations
cardiaques :un exemple de collaboration obstétricopédiatrique. Ann Pediatr
1998; 4: 178-180
22.
Todros T. Prenatal diagnosis and management of fetal cardiovascular
malformations. Curr Opin Obstet Gynecol 2000; 12: 105-109
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét